Cuối tuần kể mọi người nghe về bún Song Thằn, một đặc sản và niềm tự hào của người Nhơn Phúc.

Xã An Thái, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định được biết đến là cái nôi của bún Song Thằn từ khoảng 200 năm trước.

Nguồn gốc bún Song Thằn được cho là do người Hoa di cư đến Bình Định, mang theo nghề làm bột đậu xanh và nghề làm bún. Từ đó, công thức bún đậu xanh ra đời, với truyền thống được giữ gìn qua nhiều thế hệ. Nét đặc biệt của bún Song Thằn so với các loại bún khác là dùng đậu xanh làm thành phần chính.

Sợi bún khô có màu trắng đục, thoạt nhìn tưởng như sợi miến nhưng sáng hơn, và khi nấu chín có độ dai và trong. Để có được sợi bún mềm dai, người làm phải qua nhiều bước chế biến phức tạp từ làm bột, vắt thành sợi cho đến phơi khô. Đậu xanh tuyển chọn loại ngon, đem phơi khô và ngâm nước lạnh qua đêm, sau đó xay nhuyễn. Công thức phổ biến là cứ 4 – 5kg đậu xanh thì làm ra 1kg bún. Người thợ phải thức khuya để xay bột, vì nếu xay ban ngày, trời nắng nóng sẽ làm hỏng bột.

Bột đã xay xong đến khâu gạn lọc để phân loại bột tinh chất và bột thô, hay người địa phương gọi là bột nhất, bột nhì. Bột nhất lắng ở dưới là phần tốt để làm bún song thằn, còn bột thô nổi ở trên để làm bún loại hai. Chỉ bún làm từ bột loại một mới được dán nhãn tên song thằn.

Tương truyền, vào thời Nguyễn, các thợ lành nghề của làng bún song thằn An Thái ở Bình Định được triệu về kinh đô Huế để làm bún tiến vua. Tuy nhiên, bún song thằn ở Huế không giữ được hương vị gốc do không có nắng gió xứ nẫu, nước sông Hương khác nước sông Côn. Dân gian còn gọi là bún tiến vua.

Cái tên “song thằn” có nhiều cách giải thích. Theo người địa phương, “song” có thể hiểu là đôi, “thằn” là dây, mô tả sợi bún được cuộn lại như một cặp dây.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *