Mổ lấy thai cho sản phụ Phú Thọ nặng 178kg, không thể gây tê tủy sống vì lớp mỡ dày hơn 11cm

Chiều ngày 13/08, Bệnh viện Phụ Sản Trung ương đã thực hiện thành công ca mổ lấy thai đặc biệt cho sản phụ với chẩn đoán: thai con so 37 tuần/ béo phì, tiền sản giật, đái tháo đường.

Ngày 15 tháng 8 năm 2025, chuyên trang Phụ Nữ Số đăng tải bài viết với tiêu đề “Mổ lấy thai cho sản phụ Phú Thọ nặng 178kg, không thể gây tê tủy sống vì lớp mỡ dày hơn 11cm”. Nội dung như sau:

Được biết, sản phụ N.T.D (28 tuổi, quê Phú Thọ) bị rối loạn chuyển hóa dẫn đến việc tăng cân mất kiểm soát, cân nặng trước khi mang thai khoảng 140 kg và tăng thêm 38 kg trong thai kỳ. Với cân nặng lớn kèm theo bệnh lý tiền sản giật và đái tháo đường, việc sinh thường gần như bất khả thi. Ngay cả lựa chọn sinh mổ cũng tiềm ẩn hàng loạt nguy cơ nguy hiểm trong gây mê, phẫu thuật và hồi sức sau mổ.

Nhận định việc trì hoãn phẫu thuật lấy thai có thể làm xấu thêm tiên lượng cho mẹ và thai, các bác sĩ gây mê hồi sức và sản khoa đã khẩn trương hội chẩn và đưa ra quyết định mổ cấp cứu lấy thai, đồng thời xây dựng kế hoạch chi tiết và chặt chẽ, sẵn sàng cho hai kịch bản gồm gây tê vùng (gây tê tủy sống hoặc gây tê ngoài màng cứng) hoặc gây mê nội khí quản.

ThS.BSCKII Bạch Minh Thu – Phụ trách khoa Phẫu thuật Gây mê Hồi sức cho biết: “Với bệnh nhân béo phì, lớp mỡ dày làm mất mốc giải phẫu, khoảng cách từ da tới khoang dưới nhện quá lớn, kim gây tê hiện có gần như không đủ chiều dài do đó nguy cơ thất bại gây tê vùng là rất cao dù có hỗ trợ của siêu âm. Và trên thực tế, khi tiến hành sử dụng máy siêu âm để xác định giải phẫu chúng tôi ghi nhận khoảng cách này lên tới hơn 11cm-vượt qua chiều dài tối đa của kim gây tê khá nhiều”.

Vì vậy, sau khi gây tê tủy sống không còn khả thi, ê-kíp nhanh chóng chuyển sang phương án gây mê nội khí quản đã được chuẩn bị đầy đủ từ trước.

“Đứng trước sản phụ béo phì như trường hợp này, việc gây mê là cực kì khó khăn và tiềm ẩn nhiều nguy cơ nguy hiểm như không thông khí được sau khi sản phụ đã được gây mê và không còn khả năng tự thở, tiếp đến là tiên lượng nội khí quản khó và có nguy cơ không đặt được ống nội khí quản theo các phương pháp đơn giản thông thường.

Đặc biệt trên sản phụ béo phì như vậy, khả năng dự trữ oxy của sản phụ là rất kém, có nguy cơ sụt giảm oxy máu nhanh và trầm trọng. Do đó, chỉ cần một sai sót hoặc khó khăn trong quá trình gây mê có thể dẫn tới thiếu oxy nặng cho cả mẹ và thai gây nguy kịch tới tính mạng.” – BS. Bạch Minh Thu chia sẻ thêm.

Vì những lý do trên, ngay từ khi nhận được thông tin có trường hợp như vậy, ê kíp gây mê đã tiến hành khám tiền mê cẩn thận, kĩ càng, đánh giá kĩ tình trạng hô hấp, đường thở và các vấn đề có liên quan khác để có thể đưa ra phương án gây mê hiệu quả, an toàn. Đồng thời, mọi trang thiết bị, máy móc và thuốc men đều được chuẩn bị sẵn sàng cho các tình huống có thể xảy ra như hệ thống đèn camera, đèn nội soi, hệ thống mask Igel, ống nội khí quản,… và thậm chí là cả phương án mở khí quản.

Đồng thời, bác sĩ dựa trên chiều cao và cân nặng lý tưởng để tính toán liều lượng các loại thuốc trong gây mê vừa để đảm bảo đủ thuốc để mê đủ sâu, giãn cơ đủ độ giúp tạo thuận lợi cho đặt nội khí quản, mặt khác phải cân nhắc tránh để gây tụt huyết áp và ảnh hưởng tới huyết động – điều dễ xảy ra ở sản phụ béo phì gây mê.

“Ê-kíp thực hiện quy trình đặt nội khí quản theo chiến lược “không để mất đường thở”, tối ưu tư thế và dự trữ oxy tối đa trước mê để giảm nguy cơ giảm oxy máu cho mẹ và thai – biến chứng thường gặp ở những bệnh nhân như này.” – BS. Bạch Minh Thu chia sẻ.

Khi thực hiện phẫu thuật, BSCKII. Đặng Quang Hùng, Phó Trưởng khoa Sản bệnh lý,  người trực tiếp thực hiện ca mổ, cho biết: “Khó khăn nhất khi mổ là thành bụng rất dày gây khó khăn cho quá trình tiếp cận cơ tử cung và lấy thai. Tổ chức mỡ thành bụng sa xuống khiến các thao tác của phẫu thuật viên trở nên khó khăn hơn rất nhiều.

Trên nền tăng huyết áp và đái tháo đường, nguy cơ nhiễm trùng vết mổ và biến chứng sau mổ cũng tăng đáng kể. Trong mổ do khối mỡ thành bụng lớn và thai chèn ép làm tăng nguy cơ tai biến tim phổi. Ca mổ vì vậy đòi hỏi sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa gây mê hồi sức và phẫu thuật để nhanh chóng lấy thai an toàn, đồng thời “giải phóng” gánh nặng huyết động cho người mẹ.”

Sau gần 1 giờ, ca mổ đã thành công. Bé trai nặng 3,4 kg hồng hào, khóc to, ngay sau sinh được chuyển Trung tâm Sơ sinh theo dõi. Tuy nhiên, về phía mẹ mặc dù huyết động ổn định nhưng vẫn còn phải tiếp tục đối mặt với nhiều nguy cơ về hô hấp nên được theo dõi sát sao tại phòng hậu phẫu.

ThS. BS Hoàng Thị Ngân – Bác sĩ khoa Phẫu thuật Gây mê Hồi sức chia sẻ: “Với những trường hợp béo phì như vậy, việc thoát mê, cai thở máy và rút ống nội khí quản cũng cần phải được tính toán và kiểm soát chặt chẽ. Với trọng lượng cơ thể lớn, tỉ lệ mỡ cao làm cho các dung tích lồng ngực bị hạn chế, khả năng di động của lồng ngực kém kèm theo cơ hoành bị đẩy lên cao khiến cho việc dự trữ oxy của bệnh nhân rất kém, nguy cơ xẹp phổi và giảm thông khí sau khi rút nội khí quản là rất cao”.

Tại phòng hậu phẫu, sản phụ D được tiếp tục thở máy theo dõi sau đó sử dụng thuốc giải giãn cơ và rút nội khí quản theo đúng quy trình, kế hoạch đã được định sẵn. Ngay sau khi rút ống, sản phụ được hỗ thợ thông khí áp lực dương không xâm nhập và hướng dẫn tập hít thở nhằm tối ưu khả năng oxy hóa máu và tránh xẹp phổi.

Trong quá trình theo dõi, sản phụ đáp ứng tốt và đủ điều kiện và chuyển về khoa Hồi sức cấp cứu tiếp tục theo dõi thêm.

Anh N.T.V – chồng sản phụ, xúc động gặp lại vợ sau mổ: “Trong suốt thai kỳ, vợ tôi rất tuân thủ chế độ dinh dưỡng theo hướng dẫn, hạn chế đường ngọt, kiểm soát đồ ăn nhưng vẫn tăng cân nhiều. Tôi rất biết ơn các bác sĩ đã giúp vợ con tôi được ‘mẹ tròn con vuông’.”

“Ca mổ không chỉ là thành công về kỹ thuật mà còn là minh chứng sống động cho bản lĩnh của đội ngũ y bác sĩ Bệnh viện Phụ Sản Trung ương: từ khả năng đánh giá nhanh nguy cơ, lập kế hoạch vô cảm chính xác, kỹ thuật thủ thuật và kỹ năng phẫu thuật trên cơ địa bệnh lý, cùng với chủ động trong chăm sóc hậu phẫu nhằm giảm thiểu tối đa tai biến, biến chứng.

Từ thực tiễn lâm sàng, các bác sĩ khuyến cáo phụ nữ béo phì hoặc rối loạn chuyển hóa nên được khám và tư vấn trước khi mang thai, xây dựng kế hoạch kiểm soát cân nặng, huyết áp và đường huyết, chế độ ăn uống và sinh hoạt hợp lý. Trong thai kỳ cần khám định kỳ đúng lịch, tuân thủ dinh dưỡng – vận động theo hướng dẫn chuyên môn và trao đổi sớm với bác sĩ khi có dấu hiệu bất thường (phù, tăng cân nhanh, đau đầu, rối loạn thị giác, tăng huyết áp…). Việc được thăm khám và tư vấn từ ban đầu cũng như chuyển tuyến kịp thời đến cơ sở chuyên sâu khi có yếu tố nguy cơ sẽ giúp bảo đảm an toàn tối đa cho sản phụ và trẻ sơ sinh.

Báo VietNamNet  đăng tải bài viết với tiêu đề “Mổ cấp cứu lấy thai cho người phụ nữ nặng 178kg”. Nội dung như sau:

Bệnh nhân là chị N.T.D, quê Phú Thọ, được chuyển cấp cứu từ Bệnh viện Sản Nhi Vĩnh Phúc đến Bệnh viện Phụ sản Trung ương với chẩn đoán thai con đầu lòng 37 tuần, béo phì, tiền sản giật, đái tháo đường.

Chị D. bị rối loạn chuyển hóa dẫn đến việc tăng cân mất kiểm soát, cân nặng trước khi mang thai khoảng 140 kg và tăng thêm 38 kg trong thai kỳ. Với cân nặng lớn kèm theo bệnh lý tiền sản giật và đái tháo đường, việc sinh thường gần như bất khả thi. Ngay cả lựa chọn sinh mổ cũng tiềm ẩn hàng loạt nguy cơ nguy hiểm trong gây mê, phẫu thuật và hồi sức sau mổ.

Nhận định việc trì hoãn phẫu thuật lấy thai có thể làm xấu thêm tiên lượng cho mẹ và thai, các bác sĩ gây mê hồi sức và sản khoa đã khẩn trương hội chẩn và đưa ra quyết định mổ cấp cứu lấy thai, đồng thời xây dựng kế hoạch sẵn sàng cho hai kịch bản gồm gây tê vùng (gây tê tủy sống hoặc gây tê ngoài màng cứng) hoặc gây mê nội khí quản.

Bác sĩ chuyên khoa II Bạch Minh Thu, Phụ trách Khoa Phẫu thuật Gây mê Hồi sức, Bệnh viện Phụ sản Trung ương, cho biết với bệnh nhân béo phì, lớp mỡ dày làm mất mốc giải phẫu, khoảng cách từ da tới khoang dưới nhện quá lớn, kim gây tê hiện có gần như không đủ chiều dài do đó nguy cơ thất bại gây tê vùng là rất cao dù có hỗ trợ của siêu âm.

“Trên thực tế, khi tiến hành sử dụng  máy siêu âm để xác định giải phẫu, chúng tôi ghi nhận khoảng cách này lên tới hơn 11cm – vượt qua chiều dài tối đa của kim gây tê khá nhiều”, bác sĩ Thu cho hay.

gay me 2.jpg
Bác sĩ thực hiện gây tê vùng nhưng kim gây tê hiện có gần như không đủ chiều dài. Ảnh: BVCC

Vì vậy, sau khi gây tê tủy sống không còn khả thi, ê-kíp nhanh chóng chuyển sang phương án gây mê nội khí quản đã được chuẩn bị đầy đủ từ trước.

“Ê-kíp thực hiện quy trình đặt nội khí quản theo chiến lược ‘không để mất đường thở’, tối ưu tư thế và dự trữ oxy tối đa trước mê để giảm nguy cơ giảm oxy máu cho mẹ và thai – biến chứng thường gặp ở những bệnh nhân như thế này”, Bạch Minh Thu chia sẻ.

Bác sĩ chuyên khoa II Đặng Quang Hùng, Phó Trưởng khoa Sản bệnh lý , người trực tiếp thực hiện ca mổ, cho biết khó khăn nhất khi mổ là thành bụng rất dày gây khó khăn cho quá trình tiếp cận cơ tử cung và lấy thai. Tổ chức mỡ thành bụng sa xuống khiến các thao tác của phẫu thuật viên trở nên khó khăn hơn rất nhiều.

Sau gần 1 giờ, ca mổ đã thành công. Bé trai nặng 3,4kg hồng hào, khóc to, ngay sau sinh được chuyển Trung tâm Sơ sinh theo dõi.

Về phía mẹ, dù huyết động ổn định nhưng vẫn còn phải tiếp tục đối mặt với nhiều nguy cơ về hô hấp nên được theo dõi sát sao tại phòng hậu phẫu.

Tại phòng hậu phẫu, sản phụ D. tiếp tục thở máy sau đó sử dụng thuốc giải giãn cơ và rút nội khí quản. Ngay sau khi rút ống, sản phụ được hỗ trợ thông khí áp lực dương không xâm nhập và hướng dẫn tập hít thở nhằm tối ưu khả năng oxy hóa máu và tránh xẹp phổi.

Bác sĩ khuyến cáo phụ nữ béo phì hoặc rối loạn chuyển hóa nên được khám và tư vấn trước khi mang thai, xây dựng kế hoạch kiểm soát cân nặng, huyết áp và đường huyết, chế độ ăn uống và sinh hoạt hợp lý. Trong thai kỳ cần khám định kỳ đúng lịch, tuân thủ dinh dưỡng – vận động theo hướng dẫn chuyên môn và trao đổi sớm với bác sĩ khi có dấu hiệu bất thường (phù, tăng cân nhanh, đau đầu, rối loạn thị giác, tăng huyết áp…).

Thông tin trên cũng được báo VnExpress đăng tải với tiêu đề “Sản phụ 178 kg vượt cạn thành công sau ca mổ ‘cân não'”. Nội dung như sau:

Ca phẫu thuật diễn ra hôm 13/8 trong một giờ đồng hồ, đón bé trai nặng 3,4 kg chào đời khỏe mạnh.

Sản phụ người Phú Thọ, bị rối loạn chuyển hóa khiến cân nặng tăng không kiểm soát từ 140 kg (trước khi có thai) lên 178 kg khi sinh. Chị còn mắc tiền sản giật và đái tháo đường thai kỳ, khiến việc sinh thường bất khả thi. Thậm chí mổ đẻ cũng tiềm ẩn vô số rủi ro từ giai đoạn gây mê, phẫu thuật đến hồi sức.

Các bác sĩ Bệnh viện Phụ sản Trung ương nhận định việc trì hoãn phẫu thuật lấy thai có thể làm xấu thêm tiên lượng cho hai mẹ con, nên quyết định mổ cấp cứu lấy thai. Êkíp chuẩn bị hai kịch bản là gây tê vùng (tủy sống hoặc ngoài màng cứng) và gây mê nội khí quản.

ThS.BSCKII Bạch Minh Thu, Phụ trách khoa Phẫu thuật Gây mê Hồi sức, cho biết với bệnh nhân béo phì, lớp mỡ dày làm mất mốc giải phẫu và tăng khoảng cách từ da đến khoang dưới nhện. Khi sử dụng siêu âm, bác sĩ phát hiện khoảng cách này lên tới hơn 11 cm – vượt xa chiều dài tối đa của kim gây tê, khiến phương pháp này không khả thi.

Khi gây tê tủy sống không thực hiện được, êkíp áp dụng gây mê nội khí quản, song cách này cũng tiềm ẩn nguy hiểm, đặc biệt nguy cơ không thông khí được sau khi sản phụ mất khả năng tự thở.

Em bé chào đời khoẻ mạnh. Ảnh: Bệnh viện cung cấp

Em bé chào đời khỏe mạnh. Ảnh: Bệnh viện cung cấp

“Chỉ một sai sót hoặc khó khăn trong quá trình gây mê có thể gây thiếu oxy nặng cho cả mẹ và thai, đe dọa tính mạng”, bác sĩ Thu chia sẻ.

Các bác sĩ khám tiền mê kỹ lưỡng, đánh giá tình trạng hô hấp, đường thở và các vấn đề liên quan để xây dựng phương án an toàn. Mọi trang thiết bị từ hệ thống đèn camera, nội soi, ống nội khí quản đến phương án mở khí quản đều được chuẩn bị sẵn sàng. Song song, kíp tính toán chính xác liều lượng thuốc dựa trên chiều cao và cân nặng để đảm bảo gây mê đủ sâu, giãn cơ phù hợp nhưng tránh tụt huyết áp – biến chứng thường gặp ở sản phụ béo phì.

BSCKII Đặng Quang Hùng, Phó Trưởng khoa Sản bệnh lý – người thực hiện ca mổ, chia sẻ thách thức lớn nhất là thành bụng quá dày gây khó khăn trong tiếp cận cơ tử cung và lấy thai. Tổ chức mỡ thành bụng sa xuống khiến các thao tác phẫu thuật phức tạp hơn nhiều lần.

Trên nền tăng huyết áp và đái tháo đường, nguy cơ nhiễm trùng vết mổ và biến chứng hô hấp sau mổ tăng đáng kể. Khối mỡ lớn và thai nhi chèn ép đẩy cơ hoành lên cao, làm phổi khó nở, dễ xẹp và có nguy cơ tai biến tim phổi.

Ca mổ đòi hỏi sự phối hợp nhịp nhàng giữa gây mê hồi sức và phẫu thuật để nhanh chóng lấy thai an toàn, đồng thời “giải thoát” gánh nặng huyết động cho người mẹ.

Các bác sĩ thực hiện gây tê vùng nhưng kim gây tê hiện có gần như không đủ chiều dài. Ảnh: Bệnh viện cung cấp

Các bác sĩ thực hiện gây tê vùng nhưng kim gây tê hiện có gần như không đủ chiều dài. Ảnh: Bệnh viện cung cấp

ThS. BS Hoàng Thị Ngân, khoa Phẫu thuật Gây mê Hồi sức, cho biết với trường hợp béo phì, việc thoát mê, cai thở máy và rút ống nội khí quản cũng cần kiểm soát chặt chẽ. Trọng lượng cơ thể lớn và tỷ lệ mỡ cao khiến nguy cơ xẹp phổi, giảm thông khí sau rút nội khí quản rất cao.

Tại phòng hậu phẫu, sản phụ được thở máy, sau đó sử dụng thuốc giải giãn cơ và rút nội khí quản theo đúng quy trình. Ngay sau khi rút ống, chị được hỗ trợ thông khí và hướng dẫn tập hít thở để tối ưu khả năng oxy hóa máu, tránh xẹp phổi.

Sản phụ đáp ứng tốt và đã được chuyển về Khoa Hồi sức cấp cứu tiếp tục theo dõi. Người chồng chia sẻ trong suốt thai kỳ, vợ anh tuân thủ nghiêm ngặt chế độ dinh dưỡng, hạn chế đường ngọt, kiểm soát thực đơn nhưng vẫn tăng cân nhiều.

“Tôi vô cùng biết ơn các bác sĩ đã giúp vợ con tôi được mẹ tròn con vuông”, người chồng tâm sự.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *